Những mục tiêu phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045"
Vừa qua, Chính phủ
đã ban hành Nghị quyết số 148/NQ-CP ngày 11/11/2022 về ban hành Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24 tháng 01 năm
2022 của Bộ Chính trị về Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô
thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Tại Nghị quyết số 148/NQ-CP ngày 11/11/2022, Chính phủ xác
định việc xây dựng và ban hành Chương trình hành động của Chính
phủ nhằm thống nhất trong công tác chỉ đạo các cấp, các ngành tổ chức quán
triệt sâu rộng các nội dung và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết số
06-NQ/TW, tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức, hành động của lãnh đạo các
ngành, các cấp đối với công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý phát triển đô thị
hướng tới mục tiêu phát triển bền vững; Cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã nêu tại
Nghị quyết 06-NQ/TW của Bộ Chính trị bằng những nhiệm vụ, giải pháp thiết thực
của Chính phủ gắn với kế hoạch tổ chức thực hiện theo lộ trình cụ thể nhằm đạt
được mục tiêu của Nghị quyết.
Đồng thời, phát huy vai trò kiến tạo, điều phối của Chính
phủ theo nguyên tắc phân công, phân nhiệm rõ ràng, tập trung, dân chủ. Phân
công cụ thể cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp đảm bảo phù hợp với năng lực để
Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện
thắng lợi mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể của Nghị quyết số 06-NQ/TW.
Trong đó, các mục tiêu cụ thể đó là:
- Tỷ lệ đô thị hoá
toàn quốc đến năm 2025 đạt tối thiểu 45%, đến năm 2030 đạt trên 50%. Tỷ lệ đất
xây dựng đô thị trên tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 1,5 - 1,9% vào năm
2025, đến năm 2030 đạt khoảng 1,9 - 2,3%.
- Số lượng đô thị
toàn quốc đến năm 2025 khoảng 950 - 1.000 đô thị, đến năm 2030 khoảng 1.000 - 1.200
đô thị. Đến năm 2025, 100% các đô thị hiện có và đô thị mới có quy hoạch tổng
thể, quy hoạch phân khu, chương trình cải tạo, chỉnh trang, tái thiết và phát
triển đô thị; bảo đảm tối thiểu 100% đô thị loại III trở lên hoàn thiện tiêu
chí phân loại đô thị về cơ sở hạ tầng đô thị, nhất là hạ tầng về y tế, giáo
dục, đào tạo và công trình văn hóa cấp đô thị. Đến năm 2030, hình thành một số
trung tâm đô thị cấp quốc gia, cấp vùng đạt các chỉ tiêu về y tế, giáo dục và
đào tạo, văn hóa cấp đô thị tương đương mức bình quân của các đô thị thuộc nhóm
4 nước dẫn đầu ASEAN.
- Tỷ lệ đất giao
thông trên đất xây dựng đô thị đạt khoảng 11 - 16% vào năm 2025, 16 - 26% vào
năm 2030. Diện tích cây xanh bình quân trên mỗi người dân đô thị đạt khoảng 6 -
8 m2 vào năm 2025, khoảng 8 - 10 m2 vào năm
2030. Diện tích sàn nhà ở bình quân đầu người tại khu vực đô thị đạt tối thiểu
28 m2 vào năm 2025, đến năm 2030 đạt tối thiểu 32 m2.
- Đến năm 2025, hạ tầng mạng băng rộng
cáp quang phủ trên 80% hộ gia đình tại đô thị, phổ cập dịch vụ mạng di động 4G,
5G và điện thoại thông minh; tỷ lệ dân số trưởng thành tại đô thị có tài khoản
thanh toán điện tử đạt trên 80%. Đến năm 2030, phổ cập dịch vụ mạng Internet
băng rộng cáp quang, phổ cập dịch vụ mạng di động 5G, tỷ lệ dân số trưởng thành
tại đô thị có tài khoản thanh toán điện tử đạt 100%.
- Kinh tế khu vực đô
thị đóng góp vào GDP cả nước khoảng 75% vào năm 2025 và khoảng 85% vào năm
2030. Tỷ trọng kinh tế số trong GRDP của các đô thị trực thuộc trung ương đạt
bình quân 25 - 30% vào năm 2025, 35 - 40% vào năm 2030. Xây dựng được mạng lưới
đô thị thông minh trung tâm cấp quốc gia và cấp vùng kết nối quốc tế và 3 - 5
đô thị có thương hiệu được công nhận tầm khu vực và quốc tế vào năm 2030.
Tầm nhìn đến năm
2045: Tỷ lệ đô thị hoá thuộc nhóm trung bình cao của khu vực ASEAN và châu Á.
Hệ thống đô thị liên kết thành mạng lưới đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các
vùng, miền, có khả năng chống chịu, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng,
chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ môi trường, kiến trúc tiêu biểu giàu bản
sắc, xanh, hiện đại, thông minh. Xây dựng được ít nhất 5 đô thị đạt tầm cỡ quốc
tế, giữ vai trò là đầu mối kết nối và phát triển với mạng lưới khu vực và quốc
tế. Cơ cấu kinh tế khu vực đô thị phát triển theo hướng hiện đại với các ngành
kinh tế xanh, kinh tế số chiếm tỉ trọng lớn.
Nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý
quy hoạch đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý phát triển đô thị bền vững, Chính phủ đã xác định cụ thể 33 nhiệm vụ chính
và phân công nhiệm vụ cho các Bộ, ngành và địa phương thực hiện. Trong đó, Bộ Xây dựng:
- Là cơ quan đầu mối
phối hợp các bộ, ngành và địa phương, tổng hợp đề xuất, xây dựng Chương trình
Quốc gia về xây dựng, cải tạo, chỉnh trang tái thiết đô thị và phát triển đô
thị, báo cáo Thủ tướng Chính phủ nhu cầu cần trung ương hỗ trợ để hoàn thành
các chỉ tiêu, mục tiêu về phát triển đô thị đề ra tại Nghị quyết số 06-NQ/TW,
phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các địa phương trong bố
trí, vận động thu hút đa dạng hóa nguồn lực để thống nhất thực hiện đầu tư có
trọng tâm trọng điểm, đảm bảo đạt được mục tiêu Chương trình hành động đề ra.
- Chủ trì, phối hợp
với các bộ, ngành và địa phương điều phối, kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc
thực hiện các chỉ tiêu theo yêu cầu của Nghị quyết số 06-NQ/TW tại các tỉnh,
thành phố; chủ trì hướng dẫn các địa phương thực hiện Chương trình hành động,
tổng hợp các kiến nghị, đề xuất để báo cáo cấp có thẩm quyền; đầu mối tổ chức
nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn, bồi dưỡng, tập huấn, hướng dẫn các
biện pháp tổ chức triển khai các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số
06-NQ/TW; định kỳ báo cáo và kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp
cần thiết đảm bảo việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển đô thị quốc gia theo
từng giai đoạn đến năm 2025 và năm 2030.
Ngoài ra, tại Phụ lục II của
Nghị quyết, Chính phủ cũng đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với các
Bộ, ngành và cơ quan có liên quan triển khai xây
dựng và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày
28/05/2022 của Chính phủ về quản lý Khu công nghiệp và Khu kinh tế; triển khai
xây dựng và hoàn thiện dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về nâng cao hiệu quả
phát triển Khu công nghiệp và Khu kinh tế trong giai đoạn tới; đề xuất cơ chế
chính sách về việc tích hợp các quy hoạch về tài nguyên và môi trường, biến đổi
khí hậu với đô thị trong quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia; cơ chế
chính sách về xây dựng dữ liệu thông tin, cập nhật thông tin nhằm xây dựng cơ
sở dữ liệu vùng, quốc gia trong giai đoạn 2023-2030.
Hy vọng với những mục tiêu, nhiệm
vụ đã được xác định rất cụ thể tại Nghị quyết số 148/NQ-CP thì mục tiêu tổng quát
của Nghị quyết 06-NQ/TW “Đẩy nhanh tốc độ và
nâng cao chất lượng đô thị hoá, phát triển đô thị bền vững theo mạng lưới, hình
thành một số đô thị, chuỗi đô thị động lực thông minh kết nối với khu vực và
thế giới. Thể chế, chính sách về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô
thị bền vững cơ bản được hoàn thiện. Kết cấu hạ tầng của đô thị, nhất là hạ
tầng kỹ thuật khung và hạ tầng xã hội thiết yếu được xây dựng và phát triển
đồng bộ, hiện đại. Kinh tế khu vực đô thị tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền
vững. Chất lượng sống tại đô thị ở mức cao, bảo đảm đáp ứng cơ bản nhu cầu về
nhà ở và hạ tầng xã hội cho cư dân đô thị. Phát triển kiến trúc đô thị hiện
đại, xanh, thông minh, giàu bản sắc, các yếu tố văn hóa đặc trưng được giữ gìn
và phát huy” sẽ hoàn thành theo mục
tiêu đề ra.
Theo tin Ngọc Thuận - BQLKCN